kinh thánh

Kinh cầu nguyện cho các bà mẹ đang mang thai

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã dọn cho thân xác và linh hồn Đức Trinh Nữ Maria nên xứng đáng được cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu thế, và đã ban cho Thánh Gioan Tiền Hô được nên thanh sạch ngay khi còn ở trong lòng mẹ.


Chúng con nguyện xin Cha, ban cho chúng con được bằng an trong lúc mang thai và trong khi sinh nở. Xin Cha thương che chở đứa trẻ trong cánh tay yêu thương của Cha. Xin Cha ban cho chúng con được ơn biết nuôi dưỡng và giáo dục con cái của chúng con theo thánh ý Cha.

 Lạy Mẹ Maria nhân hiền, khi xưa Mẹ vừa cất tiếng chào bà Isave thì Thánh Gioan đang còn trong lòng mẹ đã nhảy mừng, xin Mẹ thương cứu giúp chúng con. Amen.
Chi tiết

Lời cầu nguyện khi bạn nản lòng và thất vọng

Lạy Chúa, con tín thác vào lòng nhân từ của Chúa. Con bày tỏ với Chúa những thất vọng và những nỗi đau tràn ngập trong con. Con không nhận được những gì con muốn. Xin giúp con vượt qua nỗi chán chường này và cho con tiếp tục kiên cường chiến đấu. Xin đưa con lên khỏi hố sâu tuyệt vọng và cho con sức mạnh để làm điều tốt đẹp. Xin giải thoát con khỏi cảm xúc thất vọng, và thúc đẩy con làm việc chăm chỉ hơn.


Lạy Chúa, xin cất đi tấm màn kiêu căng, để con có thể nhìn thấy rõ lòng mình hơn. Dù không có được những gì ao ước, con vẫn phải tiếp tục gắng hết sức mình; cả khi không được thành công con cũng không đổ lỗi cho người khác; nếu kỳ vọng không thành, con cũng không than van hay phê phán và biết vui vẻ đón nhận mọi sự như Thánh Ý Chúa gửi đến cho con. Trong lúc tăm tối nhất của cuộc đời, đừng để con không được đánh mất hy vọng. Con biết mình có nhiều lỗi phạm nhưng Chúa vẫn thấy điều tốt đẹp trong con. Chúa bỏ qua những lầm lỗi của con, xoa dịu những nỗi đau trong con, và tha thứ mọi tội con đã phạm.

Con cám ơn Chúa vì Chúa đã hiện diện bên con, đã tin tưởng con, đã làm cho con mọi sự, đã giao phó sự sống của Chúa cho con, đã trao cho con vòng hoa chiến thắng. Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì tất cả. Amen”.
Chi tiết

Phạm những tội nào thì không được rước lễ?

Theo Giáo Luật điều 916 thì những ai ý thức mình phạm tội nặng mà chưa xưng tội trước thì không đươc rước lễ. Trừ khi có lý do quan trọng như nguy tử hay có sự phiền phức nghiêm trọng nếu không chịu lễ và không có linh mục giải tội hay không thể đến được với các ngài thì phải thống hối trọn vẹn và dốc quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể nghĩa là trong khoảng một tuần.

Còn tội trọng là những tội nào? Chắc bạn đang muốn có một danh sách các tội trọng để có thể căn cứ vào đó biết mình có thể được rước lễ hay không. Trước khi nói đến việc lập một danh sách như vậy bạn cần phải hiểu thế nào là tội trọng.


Một tội được coi là trọng khi hội đủ ba điều kiện : “Phạm một lỗi nặng, với đầy đủ ý thức và cố tình” (Giáo Lý Công Giáo số1857).

Như vậy để phạm một tội trọng có ba yếu tố:

a) Một lỗi nặng nghĩa là một điều được xác định trong Mười Điều Răn, như Đức Giê-su trả lời người thanh niên giàu có : “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ” (Mc 10,19). Tội có thể nặng hoặc nhẹ : tội giết người nặng hơn trộm cắp. Phải xét đến cả phẩm giá của những người bị xúc phạm : tội hành hung cha mẹ nặng hơn tội hành hung một người lạ.( Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số1858)

Trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo ở phần Mười Điều Răn sẽ nói rõ về những tội nghịch với các Điều răn ấy như :

Điều Răn I : Mê tín, thờ ngẫu tượng, bói toán và ma thuật, thử thách Thiên Chúa, phạm thánh, mại thánh, vô thần…

Điều Răn II : Lạm dụng Danh Chúa, lộng ngôn xúc phạm Danh Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, dùng Danh Chúa vào việc ma thuật, thề gian kêu cầu Chúa chứng giám cho điều nói dối, bội thề…

Điều Răn III : Bỏ tham dự Thánh Lễ Chủ Nhật và lễ buộc không có lý do quan trọng, lao động và sinh hoạt ngăn trở việc thờ phựơng Chúa…

Điều Răn IV : lỗi bổn phận thảo hiếu với cha mẹ, lỗi trách nhiêm trong đời sống gia đình ( chồng ,vợ, anh, em), Lỗi bổn phận trong xã hội ( người lãnh đạo, nhà cầm quyền, công dân, giáo viên …)…

Điều Răn V : cố ý giết người, đả thương, bỏ mặc người lâm nguy, phá thai, giết chết tránh đau, tự sát, chè chén say sưa, ăn uống quá độ, sử dụng ma tuý, bắt cóc, giữ làm con tin, gây chiến tranh, hận thù, gây gương xấu lôi kéo người khác cố ý phạm lỗi nặng…

Điều Răn VI : Dâm ô, thủ dâm, tà dâm, sản xuất sách báo phim ảnh khiêu dâm, mại dâm, hiếp dâm, hành vi đồng tính, ngoại tình, ly dị, đa thê, loạn luân, sống không hôn phối, triệt sản, ngừa thai, thụ tinh nhân tạo…

Điều Răn VII : Lỗi công bằng, chiếm đoạt hay sử dụng tài sản kẻ khác cách bất công, trộm cắp, bội tín, cờ bạc gian lận, không đền bù thiệt hại, dùng tiền của, vật chất nô lệ hoá con người , phá hoại môi sinh, gây thiệt hại công ích…

Điều Răn VIII : chứng dối, thề gian, làm mất thanh danh và danh dự người khác, phán đoán hồ đồ, nói xấu, vu khống, tâng bốc đồng loã điều xấu đồi bại, nói dối làm thiệt hại nặng nề, lừa dối…

Điều Răn IX : chiều theo các dục vọng của xác thịt, sống phóng túng…

Điều Răn X : thèm muốn của cải người khác, ước muốn điều bất công hại đến tài sản người khác, ganh tị…

Đây chỉ là tóm tắt những lỗi nghịch với 10 điều răn. Các lỗi ấy nặng nhẹ còn tuỳ ở mức độ vi phạm, gây thiệt hại nặng nề, lỗi đức công bình và đức ái nữa vì tội trọng phá hủy đức mến trong lòng con người do vi phạm nghiêm trọng luật Thiên Chúa, muốn quay lưng với Thiên Chúa. Nếu muốn hiểu rõ hơn xin tham khảo sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từ số 2052 đến 2257.


b) Ngoài ra , tội trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và hoàn toàn ưng thuận. Điều này giả thiết người phạm tội phải biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa.

c) Tội trọng bao hàm một sự ưng thuận có suy nghĩ cặn kẽ để trở thành một lựa chọn cá nhân. (Giáo Lý Công Giáo số 1859 )

Nếu thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, người phạm lỗi nặng có thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm. Nhưng không ai được coi là không biết đến những nguyên tắc của luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Các thúc đẩy của bản năng, các đam mê, các áp lực bên ngoài, hoặc những rối loạn do bệnh tật, cũng có thể làm cho hành vi phạm lỗi bớt tính cách tự ý và tự do. (Giáo Lý Công Giáo 1860)

Hội đủ những điều kiện nêu trên thì coi như đã phạm tội trọng

Còn phạm tội nhẹ là khi vi phạm luật luân lý trong điều nhẹ, hay lỗi điều nặng nhưng không hoàn toàn hiểu biết hay ưng thuận. Trong trường hợp này bạn vẫn có thể lên rước lễ.

Trong phạm vi trả lời những thắc mắc thì không thể trình bầy cặn kẽ mọi khía cạnh được đồng thời có nhiều hoàn cảnh đa dạng và phức tạp của từng cá nhân nên cần có sự trao đổi với cha giải tội để ngài có thể giúp cách cụ thể được.
Chi tiết

Làm thế nào để nhận Ơn Toàn Xá Trong Ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa ?

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá trong ngày Chúa Nhật Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật thứ hai Lễ Phục Sinh. Quyết định trên đây được công bố trong sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao đăng trên báo Quan Sát Viên Rôma của Tòa Thánh.

Sắc lệnh khẳng định rằng Ơn Toàn xá được ban với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những tín hữu nào trong ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh tức là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa tại bất kỳ nhà thờ nào, với lòng quyết tâm từ bỏ mọi quyến rũ tội lỗi, kể cả tội nhẹ; và tham dự vào các việc đạo đức tôn vinh lòng từ bi Chúa, hay ít là đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính cùng với sự kêu cầu Chúa Giêsu từ bi trước sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được trưng bày công khai hoặc giữ trong nhà tạm.


Để xứng đáng mừng ngày lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta cần:

1. Đón mừng lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chủ Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh (Chúa Nhật II Phục Sinh).
2. Thành tâm thống hối ăn năn tất cả tội lỗi của chúng ta.
3. Đặt tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu.
4. Đi xưng tội, tốt nhất là nên xưng tội trước ngày Chúa Nhật của ngày lễ này.
5. Rước Mình và Máu Thánh Chúa trong ngày lễ này.
6. Tôn kính thánh ảnh Lòng Thương Xót Chúa.
7. Đối xử đầy thương xót với mọi người qua hành động, lời nói, việc làm và cầu nguyện thay cho họ.


SỰ TÔN SÙNG ẢNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Ảnh Chúa Giêsu, Lòng Thương Xót Chúa phải có ở một nơi vinh dự nhất vào ngày mừng lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa. Ảnh của Ngài cũng nhắc cho ta tưởng nhớ về cuộc Khổ Nạn, sự Chết và sự Phục-Sinh mà Ngài đã trải qua vì chúng ta, và cũng để nhắc nhở điều mà Chúa đòi hỏi chúng ta đáp trả cho Ngài – tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài và khoan dung với mọi người:

“Ta muốn hình ảnh Ta phải được tôn kính trong ngày Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh, và ta muốn điều này phải được tôn vinh một cách công khai để các linh hồn biết về điều này.


ÂN SỦNG TUYỆT VỜI CHO NHỮNG AI ĐỌC CHUỖI KINH LÒNG THƯƠNG XÓT

Khi đang cầu nguyện bằng chuỗi Kính Lòng Thương Xót, tôi (faustina) thấy vị thiên thần trở nên bất lực: không thể thực hiện án phạt Công Thẳng xứng với tội lỗi thế giới. (474)

• Giải hòa với Thiên Chúa và khẩn nài được Lòng CHUA Xót Thương. (714)
• Đem nhân lọại đến gần Cha hơn. (929)
• Nhận được Lòng Thương Xót bao la trong gìơ lâm tử. (687)
• Các linh mục hãy giới thiệu chuỗi kinh ấy cho các tội nhân như niềm trông cậy sau cùng cho ƠN CỨU ĐỘ. (687)
• Một tội nhân dù chai đá , cứng lòng đến mấy, nhưng nếu đọc chuỗi kinh này, dù chỉ một lần duy nhất mà thôi, cũng sẽ nhận được ơn thánh do lòng lân tuất vô cùng của Cha. (687)
• Ân sủng trọng đại biết bao cho những linh hồn đọc chuỗi kinh, Lòng Thương Xót sâu nhiệm của Cha cảm kích vì những người đọc chuỗi kinh này. (848)
• mọi sự đều có thể xin được nhờ chuỗi kinh này. (Faustina cầu được mưa trong 3 tiếng ).
• Hãy cổ động đọc chuỗi kinh… Cha vui lòng ban mọi điều họ nài xin Cha bằng việc lần chuỗi kinh ấy. (1128)
• Khi những tội nhân cứng lòng đọc chuỗi kinh, Cha sẽ đổ đầy bình an cho linh hồn họ, và giò chết của họ sẽ là một giờ hạnh phúc. (1541)
• Đọc chuỗi kinh này bên người hấp hối, Cha sẽ đứng giữa Chúa Cha và người hấp hối ấy, không phải với tư cách Thẩm Phán chí công, nhưng là Đấng Cứu Độ nhân lành. (1541)
Chi tiết

Ý nghĩa ngày Thứ Bảy Tuần Thánh

Ngày thứ Bảy tuần thánh, Giáo Hội dừng chân trước mộ Chúa Giêsu để suy niệm về cuộc khổ nạn đau thương của Ngài. Chính vì vậy, Giáo Hội gọi ngày thứ Bảy tuần thánh là ngày thầm lặng.

Theo cái nhìn của loài người thì đây là ngày buồn nhất trong năm. Không khí đượm màu tang tóc. Vì Chúa Giêsu đã chết, được an táng trong mồ. Nhưng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo “Sau ba ngày Ngài sẽ sống lại” (x. Mc 8, 31; Mc 9, 31; Mc 10, 33- 34). Vì vậy, Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Chính đêm nay, niềm hy vọng phục sinh đã bừng lên trong toàn thể Giáo Hội. Đức Kitô đã chiến thắng sự chết. Ngài đã sống lại, đó là niềm vui, niềm hy vọng và là nền tảng niềm tin của tất cả mọi người kitô hữu chúng ta. Bởi vì, Giáo Hội đã được khai sinh từ mầu nhiệm trọng đại này, và đó cũng là đích điểm của mọi người kitô hữu chúng ta.


Lễ nghi đêm nay bắt đầu bằng nghi thức thắp nến phục sinh. Toàn thể thế giới nằm trong bóng tối, và đang mong đợi ánh sáng, nhân loại đang trông chờ ơn giải thoát. Chủ tế bắt đầu nghi thức làm phép lửa và thắp lên cây nến phục sinh. Cả nhà thờ đang tối tăm, bổng ánh sáng phục sinh chiếu soi lan toả. Ánh sáng phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô đã sống lại. Chúa Kitô đến xua tan bóng tối tội lỗi, sự chết, sự thất vọng, để đi vào sự sống bất diệt. Trong lời nguyện làm phép lửa, Giáo Hội cầu xin Thiên Chúa cho ngọn lửa khao khát nước trời thiêu đốt tâm hồn các tín hữu và thanh tẩy muôn vàn tội lỗi, để mai sau họ được xứng đáng tham dự ánh sáng ngàn thu.

Trong đêm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta đều cầm nến sáng được thắp từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Chính vì vậy, đời sống của mỗi người chúng ta phải chiếu sáng cho những người xung quanh. Khi đứng cầm nến sáng trong tay, Giáo Hội còn nhắc nhở chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, sẵn sàng để đón chờ Chúa Kitô ngự đến trong ngày chung thẩm.


Trong phần công bố Tin Mừng Phục sinh, Giáo Hội kêu mời mọi người kitô hữu chúng ta “Hãy vui lên”. Vui lên vì Chúa đã khải hoàn. Vui lên vì Chúa đã chiến thắng thần chết. Vui vì :

Đêm cực thánh khử trừ muôn tội vạ, 
đêm vạn năng thanh tẩy hết lỗi lầm, 
biến tội nhân thành con người công chính, 
đem vui mừng cho hồn nặng sầu thương.

Trong phần phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội cho chúng ta đọc 9 bài sách thánh: 7 bài Cựu Ước, 1 bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng. Tất cả các bài đọc hôm nay, giúp chúng ta suy niệm về chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa theo dòng lịch sử từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước. Việc Thiên Chúa yêu thương tạo dựng muôn loài, nhất là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài (Bài đọc I). Đến việc ông Apraham vâng lệnh Chúa sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, chính vì sự vâng phục này mà ông được gọi là “Cha của kẻ tin”. Ông còn được Chúa chúc phúc để trở thành cha của một dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển. Việc sát tế này là hình ảnh tiên báo việc sát tế Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa sau này (Bài đọc II).

Rồi đến sự kiện dân Do Thái đi qua biển đỏ khô chân và được bình an. Đó là hình ảnh của cuộc giải thoát mới do công trình cứu độ của Đức Kitô. Đó cũng là cuộc giải thoát dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ đến vùng tự do (Bài đọc III).


Khi dân Do Thái đang sống trong kiếp lưu đày tại Babilon, vì đã bất trung với Thiên Chúa, nhưng họ đã sám hối nên Chúa lại tha thứ cho họ. Rồi Chúa lấy lòng nhân từ vô biên qui tụ họ lại để họ vui hưởng nền hoà bình lâu dài (Bài đọc IV).

Chính tiên tri Isaia đã loan báo một thời thịnh đạt mà Israel sẽ vui hưởng, thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước vĩnh cửu với những hồng ân mà Ngài đã hứa với Đavít. Chính điều này sẽ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô (Bài đọc V).

Nhưng dân Do Thái đã bỏ Chúa đi tôn thờ thần tượng, phạm đủ thứ tội nên họ bị lưu đày. Tiên tri Êzekiel đã chọ họ biết như vậy. Nhưng rồi Chúa sẽ qui tụ họ về, thanh tẩy họ, ban cho họ một quả tim và một thần trí mới để họ thực thi huấn lệnh Ngài (Bài đọc VI).

Bài đọc Thánh Thư dẫn chúng ta vào ý nghĩa của bí tích Rửa Tội. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta đã chịu Phép Rửa Tội, tức là chúng ta cùng chết với tội và chết cho Chúa Kitô để được sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11).

Đó cũng là mong muốn của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta tuyên thệ lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội trong phần Phụng Vụ Thánh Tẩy. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta được khỏi tội. Cho nên, qua nghi thức này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy hiên ngang dấn thân theo Chúa và trung thành phụng vụ Người. Hãy chết đi cho tội, cho ích kỷ, cho những gì làm cho chúng ta xa Chúa, để luôn sống xứng đáng thân phận làm con Chúa và Giáo Hội.


Cuối cùng, bài Tin Mừng Thánh Luca tường thuật về sự kiện ngôi mộ trống và việc Chúa Phục Sinh hiện ra với bà Maria Mađalêna. Đây là sự kiện đầu tiên và hết sức quan trọng cho niềm tin Phục Sinh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai và cho mỗi người qua mọi thời đại.

Mừng vọng phục sinh đêm nay, chúng ta cảm tạ tình thương bao la của Chúa. Đồng thời để đáp lại tình thương đó chúng ta quyết tâm sống cho Chúa và chết cho tội, để cùng Người sống lại vinh quang. Xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta cử hành trong phần cuối cùng của đêm nay luôn đồng hành, dưỡng nuôi tâm hồn chúng ta trên con đường về với Ngài. Amen.
Chi tiết

14 Thánh Tích Mà Chúa Giêsu Đã Để Lại

Thứ sáu tuần Thánh, kính mời quý vị và anh chị em cùng chiêm ngắm những ” kỷ vật tình yêu ” – những Thánh tích mà Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta sau hơn 2000 năm lịch sử.


Đây là bằng chứng để chúng ta hiểu rõ rằng Đấng mà chúng ta tôn thờ là hiện hữu. Sit laus Christo Iesu- Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.

1. Mũ vải:


Thời Chúa Giê su, đầu người chết thường được che hay trùm bằng 1 loại mũ vải và được các tông đồ nhắc đến sau khi Phục Sinh. Đây là mũ được tin là của Chúa, Di tích này lưu giữ ở Jerusalem gần 800 sau đó được trao cho Charlemagne và cuối cùng được trao cho Đức Giám Mục Cahors, Pháp.

Ngày nay được cất giữ tại nhà nguyện thánh Saint Gausbert in Cahors tại Pháp

2. Khăn liệm thành Turin


là tấm vải bao bọc thi hài của Chúa Giêsu, được bảo tồn ở Vương Cung Thánh Đường Gioan Tẩy Giả tại Turin, Ý.

3. Vòng Mão Gai:

Quân Lính đội đầu Chúa thay vương niệm cho 1 ông Vua – thứ 6 chịu Chết.


Di tích là 1 phần kho báu của nhà thờ Đức Bà Paris- the Cathedral of Notre Dame of Paris – từ năm 1806 do Thánh Lousi đã mang về từ Thế kỷ 13 và xây một nhà nguyện riêng tôn kính Thánh tích vào mỗi thứ 6 đầu tháng và thứ 6 tuần Thánh.

4. Đinh Thánh:


Thánh Helen được cho là đã tìm thấy những cây đinh đã dùng để đóng đinh Chúa vào Thập Giá khi bà tìm ra nơi cất giấu Thánh giá dưới hầm mỏ gần chân đồi Golgotha xưa. cây đinh đóng vào tay phải Chúa Giê su sau này được vua Constentine sử dụng cho ngựa của ngài và bị mất, sau đó lại tìm thấy ở Carpentras, thuộc khu vực đông nam nước pháp ngày nay, vì thế từ năm 1260 đến nay huy hiệu của thành phố này là 2 cây đinh Thánh đã dùng trong việc hành hình Chúa Giê su.

5. Cây Thánh Giá.


Trên thực tế, có rất nhiều mảnh của cây Thánh Giá Sự Thật được bảo tồn trong các nhà thờ trên thế giới. Mẫu dưới đây được lưu trữ tại Viện Bảo tàng kho báu hoàng đế ở Vienna, Áo.

6. Áo Thụng


Theo Phúc Âm Thánh Gioan, các binh sĩ sau khi hành quyết Chúa Giêsu không muốn làm hỏng chiếc áo vật phẩm của người bị hành hình nổi tiếng, mà thay vào đó muốn chơi trò đánh cược để xem ai có thể sở hữu chiếc áo đặc biệt không có đường may. Chiếc áo này đang có mặt tại Vương Cung Thánh Đường Trier ở thành phố Trier, Đức.

7. Cột Hành Hình:


Tương truyền, đây là cây cột mà Tổng trấn Philatô ra lệnh trói Chúa Giêsu vào và Ngài đã bị quất roi đầy đau đớn trong quá trình chịu khổ hình. Cột đang có mặt tại Vương Cung Thánh Đường thánh Praxedes ở Rome, Ý.

8. Cây giáo đã xiên vào lồng ngực của Chúa Giêsu khi Ngài trên thập tự giá


Theo trang History Today, vào ngày 15.6.1098, quân đội của Cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên đã tìm được cây giáo thánh ở thành phố Antioch. Đây được cho là cây giáo đã xiên vào lồng ngực của Chúa Giêsu khi Ngài trên thập tự giá, hiện đang được bảo tồn tại Viện Bảo tàng kho báu hoàng đế ở Vienna, Áo.

9. Bảng Titulus Crucis- INRI


Titulus Crucis (tiếng Latin dịch từ “Bảng đề cho thánh giá”) là một mẩu gỗ được cho là lấy từ Cây Thánh Giá Sự Thật, hiện được lưu trữ tại nhà thờ Santa Croce thuộc Rome. Bảng gỗ được mang dòng chữ “Vua của người Do Thái”.

10. Chén Thánh:


Theo phong tục Do Thái, vào ngày Shabbat hay lễ lớn, họ thường có nghi thức đọc kinh cầu nguyện với rượu – thường 1 ly vị chủ tế cầu nguyện – sau đó truyền nhau mỗi người uống 1 ít. Đây chính là ly hay còn gọi là Chén Thánh. hiện tại được cất giữ tại Valencia Tây Ban Nha. Sau khi bị một thành viên tín đồ giấu kín trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, nó đã được tôn kính đặc biệt vào năm 1982 trong chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II, người đã dùng nó để cử hành Thánh Lễ sau khi tôn kính di tích trong nhà nguyện.

11. Áo lót Chúa Giêsu mặc trên đường Ngài vác thập giá ra Núi Sọ.


hiện tại đang cất giữ tại vương cung thánh đường the Basilica of Saint Denis of Argenteuil, ở Pháp, cứ 50 năm 1 lần sẽ trưng bày ra cho công chúng chiêm ngưỡng.

12 Một phần máng cỏ


được đặt tại Vương cung Thánh Đường Saint Mary Major ( Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả) tại Rome.

13. Vương niệm Hoàng Gia LOMBARDY


được làm năm 591, phần kim loại được gắn 1 trong những cây đinh Thánh đã được dùng để hành hình Chúa. Một số các vị Vua đã đội trong ngày nhậm chức của họ như Các vị vua từ Charlemagne đến Ferdinand I của Áo, bao gồm Charles V và Napoleon.

14. Lọ chứa máu thánh của Chúa Giêsu


Khi ông Giuse xứ Arimathea cẩn thận đỡ di thể của Chúa khỏi thánh giá, ông đã bảo tồn giọt máu hòa với nước lấy từ xác của Ngài, cũng như máu từ những vết thương do bị đóng đinh. Sau khi chết, ông đã truyền lại những thánh tích vô giá cho gia đình. Từ năm 1255, lọ chứa máu thánh được bảo tồn ở Vương Cung Thánh Đường Holy Blood ở Bruges, Bỉ.
Chi tiết

TẠI SAO KIÊNG THỊT MÀ KHÔNG KIÊNG CÁ?

Luật Giáo hội buộc tín hữu phải ăn chay kiêng thịt. Nhưng mà tại sao phải kiêng thịt? Tại sao phải kiêng thịt mà không kiêng cá, kiêng trứng hay kiêng trái cây? Ăn thịt có gì xấu không?

Trước hết, nên lưu ý tới việc sử dụng từ ngữ. Tiếng “ăn chay kiêng thịt” gợi lên cho chúng ta hai điều: một điều cấm (kiêng) và một điều khuyến khích. Điều cấm là kiêng thịt; điều khuyến khích là ăn chay. Chắc Chúng ta đã biết rằng ở Việt Nam có vài tôn giáo đã hiểu như vậy: ăn chay có nghĩa là ăn đồ chay, những đồ lạt, không mặn. Còn đối với Kitô giáo, ăn chay có nghĩa là kiêng ăn. Như thế, ngoài chuyện kiêng thịt lại còn thêm chuyện kiêng ăn nữa.


Vì vậy nếu muốn diễn tả cho đúng tư tưởng thì thay vì nói “ăn chay kiêng thịt”, chúng ta phải nói “kiêng ăn kiêng thịt” hoặc là “chay ăn chay thịt”! Nếu đặt lại vấn đề như vậy thì câu hỏi “tại sao phải kiêng thịt” đã được giải quyết một phần rồi, nghĩa là chúng ta kiêng thịt không phải tại vì thịt nó xấu xa, cũng như chúng ta kiêng ăn không phải tại vì sự ăn uống xấu xa: sự ăn uống cần thiết cho sự sống; nếu ai tuyệt thực hoàn toàn thì sẽ sớm qua bên kia thế giới.

Chúng ta kiêng thịt không phải vì nó xấu; thế thì tại sao lại chỉ kiêng thịt mà không kiêng luôn cả cá nữa?

Vấn đề kiêng thịt không phải là cái gì riêng của Kitô giáo. Nó đã có một truyền thống lâu đời ở các tôn giáo trên thế giới, tuy với những lý do và động lực khác nhau. Chẳng hạn như các tín đồ Phật giáo kiêng thịt bởi vì họ tin vào thuyết luân hồi: khi giết các súc vật, biết đâu ta đã giết chính ông bà của mình bị phạt đầu thai làm kiếp súc vật. Dĩ nhiên, Kitô giáo đã đặt ra kỷ luật kiêng thịt không phải tại vì tin theo thuyết luân hồi nhưng dựa theo một động lực khác. Trong Cựu ước, ta đã thấy có những luật về kiêng thịt với những chi tiết khá phức tạp, thí dụ trong chương 11 của sách Lê vi, phân biệt những thú vật ô uế với vật tinh tuyền.

Tại sao lại có sự phân biệt giữa các thú vật tinh tuyền với thú vật ô uế?

Các nhà chú giải Kinh thánh không trả lời được. Có lẽ tác giả của sách Lêvi đã lấy lại một tập tục có từ xa xưa mà không còn ai nhớ rõ gốc gác. Cho dù lý do phân loại thế nào đi chăng nữa, đến khi bước sang Tân ước, ta thấy có những cuộc cách mạng quan trọng. Chúa Giêsu đã xóa bỏ sự phân biệt giữa các vật tinh tuyền và vật ô uế. Sự tinh tuyền và ô uế nằm ở trong lòng của mình chứ thú vật chẳng có tội tình chi cả (Mc 7,15). Tuy nhiên, xem ra các Kitô hữu tiên khởi (phần lớn gốc Do thái) không thể thay đổi não trạng nhanh chóng, thí dụ như ở chương 10 của sách Tông đồ công vụ, ta thấy thánh Phêrô còn sợ chưa dám ăn một vài thứ chim trời đã bị xếp vào hàng ô uế; lật qua chương 15 (câu 20 và 29) ta còn thấy thánh Giacôbê muốn đòi buộc các tín hữu tân tòng phải kiêng tránh vài thức ăn. Nhưng thánh Phaolô đi mạnh mẽ hơn, nhất là vì ngài để ý tới dân ngoại hơn là tới dân Do thái.


Thực vậy, thánh Phaolô chấp nhận hoàn toàn giáo lý của đức Kitô, theo đó chẳng có lương thực nào là ô uế hết. Nhưng có một vấn đề được đặt ra là có được ăn đồ cúng hay không? Trong thư gửi Rôma 14,14-16 thánh Phaolô đã phân biệt như thế này: tự nó, đồ cúng hay đồ không cúng chẳng có gì khác nhau, cho nên các tín hữu không phải kiêng cữ. Tuy nhiên, nếu có người non nớt bị vấp phạm vì việc người tín hữu ăn đồ cúng, thì mình phải tránh. Nói khác đi, mình kiêng ăn đồ cúng không phải tại vì nó là đồ ô uế nhưng mà mình phải tránh gây gương xấu cho người anh em mình; đây là một bổn phận thuộc giới răn bác ái yêu thương.

Như vậy, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cứ tha hồ ăn uống, phải không?

Thánh Phaolô không bao giờ xúi các tín hữu ăn uống say sưa; trái lại, ngài đã hơn một lần khiển trách những người lấy cái bụng làm chúa. Thánh Phaolô chỉ muốn huấn luyện lương tâm của các tín hữu, hãy tìm hiểu cái lý do của các luật lệ, chứ không phải chỉ giữ luật lệ cách máy móc. Tất cả các lương thực đều tốt bởi vì do Chúa dựng nên cho con người. Chúng ta hãy hưởng dụng để ngợi khen Ngài. Việc ăn uống có thể trở thành cơ hội để chúc tụng tạ ơn Chúa như chúng ta đọc thấy ở thư gửi Rôma 14,6. Tuy nhiên, cần có chừng mực.

Hơn thế nữa, thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu hãy tiến thêm một bước nữa, biết hy sinh cả những cái gì được phép làm: việc kiêng cữ những điều tốt nằm trong chương trình thao luyện tinh thần giống như các lực sĩ tập luyện ở thao trường (1Cr 9,27), nhất là để hoạ theo gương của đức Kitô chịu thụ nạn trên thập giá vì yêu thương chúng ta.


Nhưng nếu đã muốn kiêng khem lương thực thì kiêng hết các món, chứ sao lại chỉ kiêng thịt?

Như tôi đã nói ở đầu, trong Việt ngữ, vì đã quá quen với thành ngữ “ăn chay kiêng thịt” cho nên chúng ta chỉ giới hạn sự kiêng vào chuyện ăn thịt. Vấn đề kiêng cữ bao hàm việc kiềm chế hết những gì đem lại thỏa mãn thích thú, nhằm giúp cho ý chí chế ngự được bản năng. Theo một vài sử gia, trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội phải mệt với những phe khắc khổ hơn là với phe phóng túng. Phe khắc khổ đòi Giáo hội phải ra luật buộc tất cả các tín hữu phải giữ chay.

Nhưng mà Giáo hội đâu có thể bắt hết mọi người phải trở thành nhà khổ tu được. Mặt khác, trong số các vị khổ tu thời đó, không thiếu những người chịu ảnh hưởng của thuyết ngộ giáo, coi xác thịt và hôn nhân là tội lỗi. Dù sao, việc khổ chế vào những thế kỷ đầu hoàn toàn mang tính cách tự nguyện. Nếu có luật lệ thì cũng chỉ giới hạn cho từng địa phương chứ không bao trùm toàn thể Giáo hội. Việc kiêng khem tuyệt đối thường được dành cho ngày thứ 6 tuần thánh, rồi dần dần kéo dài ra các ngày thứ 6 hằng tuần. Nhưng mà dần dần kỷ luật kiêng khem tuyệt đối (chay ăn) được gia giảm bởi vì nhiều tín hữu phải làm việc lao động nặng nhọc, cần ăn uống để lấy sức. Mức độ châm chế được thay đổi tùy vùng tùy nơi. Bên Trung đông, người ta kiêng cả sữa, bơ, trứng; nhưng mà bên Tây phương, người ta chỉ đòi kiêng thịt.


Từ thời Trung cổ, sự khổ chế tự nguyện biến thành khổ chế bắt buộc, nghĩa là trở thành luật buộc. Ngoài ra việc chay tịnh cũng là một hình phạt đền tội dành cho những hối nhân. Việc soạn thảo một bản văn pháp lý đòi hỏi phải xác định tỉ mỉ các chi tiết của nghĩa vụ. Hậu quả là người ta trở lại với não trạng của các luật sĩ vào thời Chúa Giêsu, với đủ thứ vấn nạn được nêu lên: luật kiêng thịt buộc phải kiêng những thứ gì? Có phải kiêng mỡ heo, kiêng sữa bò, tiết canh hay không? Các giống động vật nào phải kiêng: máu nóng hay máu lạnh? thú vật trên bộ hay là dưới nước? Ngan, ngỗng, vịt, lươn, rùa, sò ốc nhái có phải kiêng không? Các chuyên gia về luân lý tha hồ mà nghiên cứu tranh luận về các loại thịt. Tiếc rằng người ta đã mất đi cái động lực của nó là tinh thần khổ chế lúc đầu. Vì thế có cảnh ngược đời là có người mong tới ngày thứ 6 để có dịp đi ăn ở nhà hàng thủy sản thập cẩm. Đối lại là cái cảnh chảy nước mắt của bao dân nghèo phải chi tiền nhiều hơn vào ngày thứ 6, khi mà cá mắc hơn thịt.

Giáo luật ngày nay vẫn giữ nguyên tình trạng như vậy chứ?

Bộ giáo luật hiện hành vẫn còn duy trì luật kiêng thịt, tuy nhiên với một tinh thần mới của công đồng Vaticanô II mà đức Phaolô VI đã muốn tiêm nhiễm với tông hiến Poenitemini (17/2/1966). Tinh thần đó có thể tóm lại 3 điểm sau: Tiên vàn là phải kiêng những gì xấu xa, tức là kiêng phạm tội; nói khác đi việc chay ăn chay thịt phải được lồng trong tinh thần thống hối cải hoán.

Ngoài sự kiêng cái xấu, chúng ta hãy gắng tiến thêm một bước để kiêng cả cái tốt: sự kiêng cái tốt cũng nằm trong tinh thần đền tội và tu đức, để tập kiềm chế những đòi hỏi của bản năng dục vọng. Dưới khía cạnh này, lãnh vực kiêng khem rất là rộng: từ kiêng ăn uống cho tới kiêng thuốc lá, tivi, các thứ tiêu khiển giải trí, các thứ tiêu pha hoang phí. Bước thứ ba nữa là ngoài tính cách tiêu cực (kiêng lánh) cần thêm tính cách tích cực: nhịn ăn nhịn mặc để lấy tiền giúp đỡ người nghèo, tỏ tình tương trợ với người thiếu ăn thiếu mặc. Đó là cái động lực của việc kiêng khem. Các Hội đồng Giám mục sẽ tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương mà đề ra những hình thái cụ thể trong việc áp dụng luật ăn chay kiêng thịt chiếu theo đ.1251 và 1253 của bộ giáo luật.

Lm. Phan Tấn Thành, O.P.
Chi tiết

Thứ 6 Tuần Thánh: Ăn chay và kiêng thịt

Mục đích và Ý nghĩa việc ăn chay kiêng thịt trong Giáo Hội Công Giáo?

Ăn chay là hình thức đền tội của Cựu Ước và Tân Ước: Chúa Giêsu giữ chay 40 đêm ngày để làm gương cho các tín hữu.


Luật ăn chay, giữ chay cần phải hiểu thế nào?

1. Mục đích và ý nghĩa:

+ Trở về với Thiên Chúa.
+ Noi gương Chúa Giêsu và vâng lời Giáo Hội.
+ Hy sinh hãm mình đền tội.
+ Thành tâm sám hối tội lỗi.
+ Tham gia công tác từ thiện, bác ái.
+ Cầu nguyện và làm việc lành.

2. Tiêu chuẩn:

+Tuổi giữ chay, theo GL 97 và 1252: “Mọi tín hữu tuổi từ 18 cho đến 60 tuổi thì buộc phải giữ chay”.
+ Tuổi ăn kiêng, theo GL 1252 “buộc những tín hữu tuổi từ 14 trở lên”.
+ Tại Việt Nam hiện nay chỉ còn buộc giữ chay hai ngày (Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh). Một số giáo phận còn giữ luật cũ (tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay).
+ Luật giữ chay kiêng thịt cũng có thể miễn hoặc giảm cho những người (già yếu, đau bệnh, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ…)

3. Cách thức:

+ Chỉ ăn một bữa no trong ngày. Nếu lấy bữa trưa làm chính thì bữa sáng và bữa tối chỉ được ăn chút đỉnh mà thôi.
+ Không ăn các loại “thịt”.
+ Không ăn quà vặt trong ngày.
+ Không uống các thức uống có chất kích thích như rượu, bia…


4. Kinh Thánh dạy ta ăn chay thế nào để đẹp lòng Thiên Chúa?

– Is 58,2-12: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?

– Ge 2,12-13: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.

– Hc 34,26: Cũng thế, kẻ ăn chay đền tội, rồi đi phạm lại vẫn những tội ấy, hỏi ai sẽ nghe lời nó cầu xin? Hạ mình kiểu đó, nào được ích lợi gì?

– Mt 6,16-18: Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em.


5. Tóm lại: Để có thể giữ chay tốt, ta nên chú ý đến ý nghĩa của việc giữ chay hơn là những tiêu chẩn và cách thức (hình thức). Ví dụ như: nếu ta giữ đúng những tiêu chuẩn và cách thức của luật giữ chay, mà lại thay thế bữa thịt bằng một bữa ăn đặc sản vùng biển tốn kém, thì còn gì là ý nghĩa chay tịnh nữa. Đàng khác, nếu ta chỉ giữ chay với thói quen hình thức, mà không yêu thương, từ tốn, nhã nhặn, tha thứ cho những người xung quanh ta, thì giữ chay nào có ích gì. Vậy, ăn chay theo đạo Công-giáo là nhịn ăn hoặc bớt ăn để diễn tả sự hy sinh tự nguyện, để cổ võ lòng đạo đức hoặc lập thêm công đức; hơn nữa, nhịn ăn hay bớt ăn cũng là để chia sẻ với người nghèo khó trong tinh thần bác ái và phục vụ.
Chi tiết

Tại sao người Công Giáo gọi Linh Mục là “CHA”?

Trong Phúc âm theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã nói, “Đừng xưng hô ai dưới đất là “Cha” của anh em, vì Cha của anh em chỉ có một, Cha ở trên trời.” (Mt 23,9) Nghe qua, ta thấy lời này có vẻ mâu thuẫn với thói quen của người Công giáo thường gọi các linh mục là cha. Ngay cả như thế, câu này cũng có vẻ như bảo chúng ta đừng nên gọi bố mình là “cha” và chỉ có Chúa là người duy nhất chúng ta có thể gọi là cha.


Chúng ta phải hiểu như thế nào? 

Trong bối cảnh này, Chúa Giêsu đang nói về sự giả hình của các kinh sư và người Pharisiêu. Trong một bài báo trên Catholic Exchange, cha William Saunders đã giải thích về dụng ý của Chúa Giêsu:

Chúa Giêsu khiển trách họ vì đã không làm gương tốt, vì đã chất gánh nặng lên người khác bằng vô số quy định và luật lệ, vì ngạo mạn với cương vị của mình, và vì leo thang công danh, tìm kiếm sự trọng vọng và ăn mặc phô trương. Về căn bản, các kinh sư và người Pharisiêu đã quên mất rằng họ được kêu gọi phục vụ Thiên Chúa và những người được giao phó cho họ chăm lo.

Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu nói rằng đừng gọi ai trên đời này là “Rabbi,” là “cha” hay “thầy” với nghĩa là đừng để bất kỳ ai tự nhận cho mình thẩm quyền vốn của Thiên Chúa và quên mất những trách nhiệm khi nhận lấy cương vị của mình.

Chúa Giêsu đã nói ngoa dụ để cho các kinh sư và Pharisiêu thấy họ tội lỗi và kiêu ngạo đến thế nào khi không thấy Thiên Chúa là cội nguồn của mọi thẩm quyền, và thay vào đó lại nhận lấy cho mình những thẩm quyền tối cao, nhận mình là cha, là thầy của người khác.

Hiểu như thế sẽ hợp lý khi chúng ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu dùng từ “cha” cho một số người chẳng hạn như “Tổ phụ Abraham” hay người cha của đứa con hoang đàng. Phải hiểu bối cảnh khi diễn giải những đoạn Kinh thánh khó.


Nhìn nhận như thế, nhưng chúng ta vẫn thắc mắc vì sao người Công giáo gọi linh mục là “cha”? 

Các linh mục luôn được người Công giáo xem là những người cha tinh thần. Thánh Phaolô đã nói rõ điều này trong thư gởi tín hữu Corinthô, “Không phải để bêu nhục anh em mà tôi đã viết thế! Nhưng là để sửa dạy anh em như những con cái chí thiết. Vả chăng, cho dẫu quản giáo, anh em có từng vạn trong Ðức Kitô Yêsu, nhưng cha, thì không nhiều đâu: vì trong Ðức Kitô Yêsu, nhờ Tin mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4, 14-15)

Ngay cả Đức Giáo hoàng trong tiếng La Tinh cũng là “papa” nghĩa là cha. 

Từ này thể hiện vai trò làm cha tinh thần của các linh mục. Các cha nuôi dưỡng đức tin và chỉ bảo chúng ta như người cha chỉ bảo con cái. Đây là một trong những lý do mà Giáo hội vẫn muốn linh mục sống độc thân khiết tịnh, để các linh mục được tự do làm cha tinh thần cho đoàn chiên mà Chúa đã giao phó.
Chi tiết

"Quan hệ" trước khi cưới có phải là phạm tội trọng không?

Hỏi: Xin cho con hỏi. Con có hai người bạn và dự định đến cuối năm thì đinh hôn. Nhưng lai có quan hệ trước hôn nhân. Vì thế cho con hỏi là bạn con có được rước lễ bình thường không ạ? Đó có phải là tội trọng hay không? Nếu đi xưng tội mà lại phát sinh quan hệ nữa thì không phải là tội trọng thêm nũa sao ạ?


Trả lời: Giáo huấn Công giáo dạy rằng: việc kết hợp thân xác giữa hai người nam nữ chỉ được thực hiện trong hôn nhân hợp pháp, Công Đồng Vaticanô II, đã khẳng định: “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu vợ chồng qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh cao quý của hôn nhân. Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ “không còn là hai, nhưng là một xương thịt” (Mt 19,6), họ phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động, để cảm nghiệm và đạt đến sự hiệp nhất với nhau ngày càng trọn vẹn hơn. Sự hợp nhất thân xác, hành vi tự hiến của hai người cho nhau, cũng như lợi ích của con cái, đòi buộc đôi vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và thúc đẩy họ kết hợp với nhau bất khả phân ly (Hiến chế “Vui mừng và Hy Vọng” số 48).

Vì thế, hai người bạn của bạn ăn ở với nhau trước khi kết hôn là phạm tội. Tội đó được gọi là tội gian dâm. Giáo lý Công Giáo đã dạy: “Gian dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ còn tự do. Tội này trái nghịch cách nghiêm trọng với nhân phẩm và tính dục của con người, vốn tự nhiên quy hướng tới lợi ích của đôi phối ngẫu cũng như tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Ngoài ra, gian dâm còn là một gương xấu nghiêm trọng, khi làm băng hoại giới trẻ”. (Sách GLHTCG số 2353).

 Đó là một trọng tội và không được rước lễ. Nếu muốn rước lễ buộc phải đi xưng tội, và dĩ nhên để được tha tội đòi hỏi phải có lòng thống hối, dốc lòng chừa, tức là phải xa tránh dịp tội. Điều đó cũng có nghĩa là hai người bạn của bạn phải chấm dứt dịp đưa tới phạm tội gian dâm, tức là phải nhà ai người đó sống, không được sống chung với nhau cho tới khi thiết lập Bí tích hôn nhân, và cũng phải dứt khoát mọi hành vi quan hệ thân xác vói nhau cho tới khi có được đời sống chung hợp pháp theo luật định.

Thân ái
Chi tiết

Cầu nguyện như thế nào cho được Chúa dễ nhậm lời?

Xin cha giải thích câu hỏi sau đây: Tại sao cần cầu nguyện và cầu nguyện cách nào cho được Chúa dễ nhậm lời?

Trả lời: Cầu nguyện nói chung và và cầu xin nói riêng là một phần của cầu nguyện là việc đạo đức rất đáng khuyến khích và thực hành vì nó nói lên niềm tin của người tín hữu nơi Thiên Chúa là Đấng không ai trông thấy bằng mắt nhưng tin chắc có Ngài hiện diện và luôn lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta.


Nói một cách thông thường, thì cầu nguyện là trò chuyện thân mật với Chúa trong tình Cha-con khi vui khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, gặp lắm gian nan, đau khổ...trên đường đời. Chúa Giêsu đã nêu gương cầu nguyện cho các Tồng Đồ xưa và mọi người tín hữu chúng ta ngày nay khi Chúa luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha trong suốt hành trình ba năm đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và cho đến phút trước khi tắt hơi thở trên thập giá.

Trước hết, Chúa đã vào hoang địa để ăn chay, cầu nguyện suốt 40 đêm ngày, trước khi ra rao giảng Tin Mừng Cứu Độ.. (cf Mt 4:1-11; Mc 1: 12-13; Lc 4 : 1-13). Chúa đã dạy các Tông Đồ cầu nguyện với Kinh Lậy Cha mà chúng ta đang đọc mỗi ngày (Mt 6: 9-13; Lc 11: 2-4). Chúa cũng đặc biệt tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha trong chương 17 Phúc Âm Thánh Gioan, trước khi Người chịu khổ hình Thập giá. Và khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu cũng đã cầu xin cho những kẻ đóng đinh Người như sau:

"Lậy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm."(Lc 23: 34)

Sau hết, trước khi tắt hơi thở cuối cùng trên thập giá, Chúa cũng đã than thở lần chót cùng Chúa Cha với những lời thống thiết như sau:

"Ê-li, Ê-li lê-ma xa-bác tha-ni" nghĩa là "Lậy Thiên Chúa, lậy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con." (Mt 27: 46)

Nhưng Chúa đã vui lòng chịu mọi sự khó và chết sau khi Người phó linh hồn cho Chúa Cha: "Lậy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha." (Lc 23:46)


Như thế đủ cho thấy là Chúa Giêsu đã coi việc cầu nguyện cần thiết và quan trọng đến mức nào trong khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ và cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó cho Người.

Hơn thế nữa, Chúa đã làm gương sáng ngời cho chúng ta về sự cần thiết phải cầu nguyện, vì qua cầu nguyện, chúng ta được xích lại gần Thiên Chúa là Cha luôn lắng nghe lời cầu xin tha thiết của mọi con cái loài người.

Cầu nguyện cũng để nói lên lòng tin và hy vọng vào Chúa là Đấng duy nhất ban phát mọi ơn lành và giúp ta đứng vững trong mọi thử thách, khó khăn, gian truân trong hành trình đức tin.

Lại nữa, cầu xin cũng để thú nhận rằng chúng ta rất yếu đuối, dễ nghiêng chiều về sự xấu, và tội lỗi , nên rất cần ơn Chúa để chiến thắng ma quỉ, xác thịt và gương xấu của thế gian, luôn đe dọa lôi kéo chúng ta ra khỏi tình thương của Chúa và mất hy vọng được cứu rỗi.

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ: "Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." (Lc 21: 36)

Nhưng để cho lời cầu xin của chúng ta được hữu hiệu chấp nhận, chúng ta phải nhờ cậy Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh Nam nữ khác, kể các các linh hồn thánh trong Luyện ngục, nguyện giúp cầu thay cho chúng ta. Phải nhờ cậy các Thánh vì các Ngài đang được vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Quốc và có thể nguyện giúp cầu thay đắc lực cho chúng ta và cho các linh hồn thánh trong Luyện Tội. Chỉ nhờ cậy thôi chứ không cầu xin Đức Mẹ và các Thánh vì chỉ có Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành cho chúng ta qua lời cầu bầu của Đức Mẹ, của Thánh Cả Giuse, các Thánh Nam Nữ và cả các linh hồn thánh trong Luyên Ngục.

Các linh hồn này không thể tự giúp mình được nữa vì thời giờ đã mãn cho họ lập công đền tội hay phạm thêm tội nào nữa. Vì thế các linh hồn cần sự trợ giúp của các Thánh trên Thiên Đàng và các tín hữu còn sống trên trần thế để mau được tha mọi hình phạt hữu hạn và sớm được gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Đàng. Tuy nhiên, các linh hồn trong Luyện Tội cũng có thể cầu xin cho chúng ta đang lữ hành trên trần thế., cách hữu hiệu.

Chỉ có các Thánh là không cần sự trợ giúp của ai nữa vì các ngài đã đủ điều kiện để hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng rồi, và có thể cứu giúp các linh hồn nơi Luyên tội và các tín hữu còn sống trên trần thế này qua lời cầu xin Chúa thay cho chúng ta và các linh hồn nơi Luyện tội. Đó là tín điều các Thánh thông công  mà Giáo Hội dạy các tín hữu tin và thực hành để mưu ích cho mình và cho các linh hồn thánh nơi Luyện Tội.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Chi tiết

Lời cầu nguyện trước khi lái xe

Lạy Chúa, cuộc lữ hành của con khởi đầu và kết thúc trong Chúa.


Lạy Chúa Giê su, những người này đặc biệt với con, xin Chúa dẫn đưa chúng con đến nơi an toàn và đúng giờ. Khi chúng con lái xe xin Chúa dẫn đường và giữ chúng con khỏi tai nạn.

Lạy Chúa Giê su, xin Chúa ban cho con được minh mẫn trí óc để vững chắc tay lái. Amen.
Chi tiết

Ý Nghĩa Của Dầu Thánh

Lễ Dầu (Missa Chrismatis) trước hết là hiến thánh Dầu Thánh – SC (Sanctum Chrisma), làm phép Dầu bệnh nhân – OI (Oleum Infirmorum) và Dầu Dự tòng – OS (Oleum Sanctum hay Oleum Catechumenorum). Dầu được thánh hiến và làm phép hôm nay sẽ được dùng cho cả năm….

Chúng ta cùng ghi nhớ việc sử dụng dầu thánh trong đời sống của dân Chúa.


Trên hết là Dầu Thánh còn được gọi là Dầu Chrisma đã được Đức Giám mục hiến thánh là dầu có pha thuốc thơm và dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín : được xức cho các tân tòng trong Bí Tích Rửa Tội, cho các kitô-hữu trong Bí Tích Thêm Sức, cho các Linh mục và một cách sung mãn cho các Giám mục trong Bí Tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để cung hiến bàn thờ và nhà thờ.

Dầu Bệnh Nhân được làm phép trước hết, để xức cho các bệnh nhân. Hội Thánh xin Chúa xoa dịu thân xác các bệnh nhân, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn, phù trợ những người chăm sóc, cứu thoát bệnh nhân, ban sự sống và sức khỏe cho họ.

Dầu Dự Tòng được xức cho các dự tòng trước khi Rửa Tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác, tựa như người lực sĩ được xoa bóp dầu trước khi lên võ đài.


Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1183) nhắc đến việc cất giữ Dầu Thánh trong nhà thờ như sau :“Dầu Thánh (SC) theo truyền thống, được bảo quản và tôn kính tại một nơi chắc chắn trong cung thánh, vì việc xức dầu này là dấu bí tích cho ấn tín ơn Chúa Thánh Thần. Dầu Dự tòng (OS) và Dầu Bệnh nhân (OI) cũng có thể đặt chung ở đó”.

Đức Cha tận tay trao các loại Dầu cho từng Giáo hạt để phân chia đến các Giáo xứ. Thánh Lễ kết thúc. Mỗi người trở về để tiếp tục với những bổn phận hàng ngày, và với những nghi lễ sẽ diễn ra trong Tam Nhật Tuần Thánh. Để cùng với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn của Ngài, từng người dâng hiến chính đời mình, dâng hiến con người tội lỗi, yếu đuối, vấp phạm của mình. Ánh sáng của sự sống lại, niềm vui của ngày khải hoàn sẽ được trao ban cho những ai trung thành bước theo Đức Kitô.


Xin cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài được như lời Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô viết trong Tông thư Năm Thánh Thể : “Hãy cố gắng cử hành Thánh Lễ hàng ngày với niềm vui và lòng sốt mến như Thánh Lễ đầu đời linh mục của các con”
Chi tiết

Làm sao để biết linh hồn nào đã được lên Thiên Đàng hay chưa?

Hỏi: xin cha giải đáp giúp 2 thắc mắc sau đây:

1- Khi cử hành thánh lễ an táng, một số linh mục đã giảng rằng: linh hồn ông này, (bà này) chắc chắn đã lên thiêng đàng rồi, không cần cầu nguyện nữa! Xin cho biết có giáo lý nào cho phép biết và tin điều này hay không?
2- Khi đăng cáo phó với lời lẽ như: “đau đón báo tin buồn Ông, (Bà) đã được Chúa gọi về ngày giờ...” như thế có phù hợp với tín lý Công Giáo về sự chết và hy vọng phục sinh của con người hay không?


Trả lời: 

1- Khi có người qua đời, Giáo Hội chỉ dạy cử hành Nghi thức an táng (Ordo Exsequiarum = Rite of Funerals) gồm có các nghi thức cầu nguyện ở tư gia hay nhà quàn, nghi thức thánh lễ an táng cử hành ở nhà thờ, và nghi thức tiễn đưa ngoài nghĩa trang. Các nghi thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI chấp thuận và Thánh Bộ Phụng Tự đã công bố cho thi hành trong toàn Giáo Hội kể từ ngày 1 tháng 6 năm 1970.

Qua tất cả các nghi thức trên, Giáo Hội cầu nguyện cho linh hồn người quá cố được mau đón nhận vào Nước Thiên Chúa để vui hưởng Nhan Thánh Ngài là nguồn hạnh phúc vĩnh cữu cho những ai được cứu rỗi.

Giáo Hội cầu nguyện cho người quá cố vì tin vào sự phục sinh của kẻ chết nhờ lòng xót thương tha thứ vô biên của Chúa như ta tuyên xưng trong Kinh Tín Kính: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Giáo lý của Giáo Hội chỉ nói đến sự phán xét riêng dành cho một linh hồn sau khi lìa khỏi xác như sau:

“Mỗi người lãnh nhận trong linh hồn bất tử của mình phần trả công muôn đời cho mình ngay sau khi chết trong một cuộc phán xét riêng, chiếu theo cuộc sống của mình hướng về Chúa Kitô, để hoặc sẽ trải qua một sự thanh luyện, hoặc lập tức bước vào hưởng hạnh phúc trên trời, hoặc lập tức bị án phạt muôn đời.” (x. SGLGHCG, số 1022).
Nghĩa là sau khi thể xác chết, linh hồn sẽ chịu phán xét riêng để:
· hoặc phải được thánh luyện thêm ở nơi gọi là luyện tội (Purgatory) một thời gian trước khi được vào hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng. 
· hoặc được thâu nhận ngay vào Thiên Đàng vì đã thánh thiện đủ. 
· hoặc bị phạt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục (hell) 

Kết quả trên tùy thuộc vào cuộc sống mà một người đã tự do lựa chọn cho mình khi còn sống trên đời này. Đó là giáo lý của Giáo Hội mà chúng ta phải theo. Nhưng sự thực xẩy ra thế nào cho một linh hồn ngay sau khi lìa khỏi xác thì chỉ có Chúa biết và định đoạt mà thôi. Giáo Hội không cách nào biết được nên chỉ dạy tín hữu cầu nguyện cho kẻ chết được tha thứ mọi tội lỗi đã phạm khi còn sống để mau được đón nhận vào Nước hằng sống. Nói khác đi, Giáo Hội chưa bao giờ phán đoán tức khắc ai đã lên Thiên Đàng, ai phải thanh luyện trong luyện tội và ai đã sa hỏa ngục, cho dù người chết đã sống lành thánh hay tội lỗi công khai đến mức nào. Giáo Hội có phong thánh (canonize) cho ai thi cũng phải qua một thủ tục khắt khe và một thời gian điều tra vô tư theo giáo luật qui định chứ chưa bao giờ tuyên bố tức khắc ai là thánh và đang ở trên Thiên đàng để khỏi phải cầu nguyện cho người đó nữa.

Như vậy, linh mục nào, khi cử hành lễ an táng cho ai, mà tuyên bố linh hồn người ấy đã lên thiên đàng rồi, thì đây hoàn toàn là điều “tưởng tượng quá chủ quan” của linh mục đó để nhằm vinh danh người chết, và làm vui lòng cho tang gia mà thôi. Tuyệt đối không có giáo lý, tín lý nào của Giáo Hội cho phép ai tuyên bố như vậy đối với một người vừa qua đời, dù người đó là Giáo Hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục hay tu sĩ. Chắc chắn như vậy! Giáo Hội chỉ dạy cầu nguyện và phó thác linh hồn các tin hữu đã ly trần cho lòng từ ái của Thiên Chúa mà thôi, chứ không hề phán đoán gì về số phận đời đời của ai cả. (x. SGLGHCG số 958, 1032)

Vả lại, nếu đã biết linh hồn nào lên thiên đàng rồi thì dâng lễ cầu nguyện làm gì nữa, vì các thánh trên Thiên đàng không cần ai cầu nguyện cho, mà ngược lại, còn nguyện giúp cầu thay cách đắc lực cho các tín hữn còn sống hay đang đau khổ trong nơi luyện tội. (tín điều các thánh thông công = communion of saints)

Vậy chúng ta cứ cầu nguyện cho mọi người đã qua đời vì không biết những người đó hiện đang ở đâu, Thiên đàng, luyên tội hay hỏa ngục. Nghĩa là đừng vội tin lời tuyên bố chủ quan của ai để không cầu nguyện cho người quá cố nữa.


2- Khi có người qua đời thì thông thường người ta dùng những ngôn từ như câu hỏi được đặt ra trên đây để báo tin buồn cho thân thuộc xa gần.

Về một phương diện, hay nói đúng hơn về mặt con người, thì sự chết quả thật là điều đau buồn nhất cho thân nhân còn sống. Như thế, đau buồn, báo tin và chia buồn là điều chính đáng và phù hợp với bản chất và tâm lý nhân loại.

Chúa Giêsu xưa kia đã sống trọn vẹn với bản tính nhân loại này khi Chúa nghe tin người bạn của mình là Lazarô chết (x. Ga 11). Nhưng khi thấy người Do Thái đến chia buồn với chị em Maria và Martha, Chúa Giêsu đã không nói với họ: sao lại chia buồn? phải chúc mừng chứ vì chết là được giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ ở đời này mà ... Ngược lại, chính Chúa đã khóc thương Lazarô khi đứng trước mộ của anh khiến những người Do thái có mặt phải nói với nhau rằng: “Ông ta thương Lazarô biết mấy!” (Ga 11:36). Và để an ủi cho chị em Mariavà Martha, nhất là để cho thấy Người là Thiên Chúa, là sự sống và là sự sống lại, Chúa Giêsu đã truyền cho Lazarô ra khỏi mồ, sống lại sau 4 ngày nằm ở đây. Đặc biệt, Chúa đã nói với Martha khi đó và mọi người chúng ta ngày nay tín điều rất quan trọng này: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” (Ga 11: 25).

Như vậy, tuy đau buồn theo bản tính con người trước sự chết, chúng ta cũng đừng quên tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô là sự sống và là sự sống lại mỗi khi phải đối diện với sự chết, một điều không ai tránh được khi mang thân phận con người trong trần thế này.

Đau buồn và biểu lộ buồn đau này là điều phù hợp với nhân tính và không nghịch với đức tin. Tuy nhiên, để nói lên niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, tức là bày tỏ niềm hy vọng vào sự sống lại của người đã chết, chúng ta không nên quá bi thảm sự chết để không vô tình kêu trách Chúa là nguyên nhân gây ra sự đau buồn to lớn này. Linh mục giảng trong lễ tang, cũng không nên quá đào sâu nỗi đau khổ của sự chết mà quên nhấn mạnh chiều kích hy vọng và niềm vui phục sinh của người đã ly trần.

Sau hết, trong lời báo tin buồn cho thân nhận, chúng ta nên dùng ngôn từ thể hiện được niềm tin phục sinh nhiều hơn là thuần tính nhân loại như một số cáo phó đã được nghe gần đây.

Thí du, nên viết: Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, xin báo tin để thân bằng quyến thuộc được biết: người thân của chúng tôi là... đã được Chúa gọi về (hay đã ra đi bình an trong Chúa) ngày tháng năm... Nghĩa là không nên nói: rất đau đớn báo tin buồn người thân đã được Chúa gọi về... 

Trong lời phân ưu, cũng không nên nói: “rất đau buồn khi được tin ông, bà... đã được Chúa gọi về”. vì nói như vậy hóa ra trách Chúa đã gây ra sự đau buồn hay sao?

Thật ra, chết là hậu quả của tội lỗi chứ không phải là điều Thiên Chúa mong muốn cho ai từ ban đầu: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi đã gây nên sự chết. Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người vì một người đã phạm tội. (x Rm 5:12).
Chính Chúa Kitô cũng đã phải chết vì tội của nhân loại, nhưng qua cái chết của Người trên thập giá, Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết và cho chúng ta hy vọng vào sự sống lại sau khi phải chết trong thân xác, nếu chúng ta cùng sống và chết như Chúa Kitô. Đây là niềm tin, vui hy vọng mà chúng ta phải cám ơn Chúa mặc dù phải chấp nhận đau khổ của sự chết.

Tóm lại, đứng trước cái chết, là con người, ai cũng phải đau buồn, khóc thương, chia buồn với nhau. Nhưng đừng quá bi thảm cái chết đến nỗi vô tình trách Chúa là nguyên nhân gây ra. Ngược lại, phải cám ơn Chúa về hy vọng phục sinh sau khi phải chết vì hậu quả của tội lỗi như Thánh Phaolô đã dạy.

 Cầu nguyện cho người chết là việc bác ái đẹp lòng Chúa. Nhưng không ai được phép kết luận hay phán đoán gì về phần rỗi của bất cứ người nào dù biết người đó đã sống tốt lành hay “tội lỗi” ra sao. Chỉ một mình Thiên Chúa biết và phán đoán mà thôi.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Chi tiết

Lá đã làm phép có được bỏ đi không?

Chào cha, vào Mùa Chay khi tham dự Lễ Lá, mỗi giáo dân được phát cho 1 lá dừa đã làm phép. Xin hỏi là lá ấy mang về nhà và khô héo và con muốn bỏ đi. Vậy cách nào bỏ lá ấy đi cho đúng cách? Cám ơn cha. Chúc cha an mạnh.


Bạn thân mến, Như chúng ta đã biết, Chúa Nhật lễ lá được cử hành trước ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mở đầu Tuần Thánh. Cả bốn sách Tin Mừng đều đề cập đến sự kiện này (Mc11,1-11, Mt21,1-11, Lc 19,28-44, Ga12,12-19) về việc Chúa Giêsu tiến vào thành Jerusalem vào những ngày trước khi chịu khổ hình. Chúa Giêsu vốn nghèo khó, nhưng vì là Thiên Chúa, đã long trọng vào thành Giêrusalem trên lưng lừa để đi vào đền thờ, các môn đệ đi bên cạnh, dân chúng từ con nít tới người lớn tự động trải áo trên đường để kính trọng Chúa, họ cũng bẻ những chiếc lá, cành cây vẫy vẫy như để hoan hô (Hosana), tung hô Chúa như một vị Vua theo phong tục của họ.

Có nhiều loai lá được dùng, như lá cây cọ, cây liễu, hoặc cây nào địa phương họ sẵn có. Nhiều nơi dùng lá dừa, như ta thấy ở Việt nam, và Hoa kỳ. Tất cả những ai đã chịu phép rửa tội đều được phát lá. Trong Thánh Lễ, lá được kính nhớ bằng việc làm phép và rước lá. Các linh mục thì mặc áo lễ màu đỏ, là phẩm phục cho lễ trọng. Sau Thánh Lễ, giáo dân nhận lấy lá đã làm phép về đặt nơi tôn kính trong nhà, như là một sự nhắc nhở Chúa Kitô đã vinh quang chiến thắng, và hướng đến Chúa là Vua thực sự của đời mình.

Khi chúng ta không còn sử dụng lá nữa, chúng ta phải hủy như thế nào? 

Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ tìm hiểu vắn gọn về tượng ảnh cũ kỹ, rách, bể, không còn sử dụng được nữa. Theo Hiến chế Phụng Vụ số 125: ” Không nên trưng bày quá nhiều ảnh tượng trong một nhà, một tòa nhà, chỉ nên trưng bày một số ảnh tượng hạn chế và hợp lý. Khi ảnh tượng đã làm phép, đã cũ nát, được đốt hay xé bỏ đi một cách kính cẩn. Các tranh ảnh, bìa báo in hình Chúa Đức Mẹ chưa làm phép có thể xé bỏ, không phải áy náy.”


Bạn hãy nhớ, trên hết, quan trọng là tấm lòng của chúng ta với Chúa, Mẹ Maria, hay các thánh. Sau đây là hai giải pháp chúng ta có thể áp dụng: Giải pháp thứ nhất, chúng ta có thể để lại cho người nào cần dùng, có thể cho vào một thùng giấy, dán chữ ” Tượng ảnh Công Giáo. Xin tự nhiên sử dụng.” Bạn cũng có thể gặp cha sở, hay bất cứ linh mục giúp xứ nào, để các cha có thể đem ra để cuối nhà thờ hay tặng cho những ai cần thì đem về để tôn kính tại nhà họ…

Giải pháp thứ hai, nếu ảnh tượng thánh trở nên cũ kỹ, không còn sử dụng được nữa thì bạn hãy đốt đi (nếu là giấy, plastic…), nếu là tượng thạch cao, đất sét, bạn có thể đập vỡ và chôn ở vườn, chủ yếu là không ai nhìn thấy, hầu tránh làm gương mù gường xấu, gây hiểu lầm cho người khác.

Chúng ta nên nhớ, tượng ảnh đã làm phép cũng cần có sự cung kính đúng mực, tuy tượng ảnh không phải là chính Chúa Giêsu, hay Đức Mẹ, hay các thánh. Vì thế, không được quẳng vào thùng rác, hay quăng bừa bãi ở nơi bất xứng.

Còn về việc xử lý lá (dừa, cọ…) đã khô héo sau ngày Lễ Lá, cũng là lá đã được làm phép, thì bạn có thể đem đến các cha xứ vì các ngài sẽ đốt các lá ấy thành tro để dùng làm tro xức trên trán (hay trên đầu) cho Thứ Tư Lễ Tro. Nếu không, bạn cũng có thể tự đốt lá ấy ra tro và rắc vào các chậu bông trong nhà hay ở vườn cây. Có một số giáo xứ, khi Lễ Lá kết thúc, các cha sẽ thâu lại lá ấy. Các bạn đừng ngạc nhiên vì có thể các cha nghĩ nhiều Kitô hữu sẽ không biết cách xử lý lá đã làm phép sau khi đã khô héo, hơn nữa, các cha muốn tận dụng lại các lá ấy là đốt thành tro để dùng tro xức vào Thứ Tư Tro.
Chi tiết

Ý nghĩa của Tuần Thánh

Sau thời gian cử hành Mùa Chay Thánh, trong đó Giáo Hội hướng về Đại lễ Phục Sinh bằng việc chuẩn bị các dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức Và Thánh Thể, trong đêm Vọng Phục Sinh; đồng thời dọn lòng con cái cho Đại lễ này với các việc đọc Lời Chúa, tham dự phụng vụ, cầu nguyện, ăn chay hãm mình, canh tân trở lại, sống bác ái và làm việc bố thí.


1. Tưởng niệm Chúa Kitô hoàn thành công trình cứu chuộc cách đặc biệt nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua:

- Chúa Kitô trong suốt cuộc đời trần thế đã hoàn thành công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa, cách đặc biệt nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua.

- Trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, Chúa Kitô đã tiêu diệt sự chết và tội lỗi, đã sống lại để ban cho chúng ta nguồn sống mới (PV.5).

- Vì thế, Giáo Hội- Mẹ chúng ta, tưởng niệm Chúa Kitô Phục sinh mỗi tuần vào ngày Chúa Nhật, và mỗi năm một lần họp mừng cuộc Thương Khó – Khổ Nạn – Phục Sinh của Chúa Kitô, Chúa chúng ta bằng những nghi lễ rất long trọng vào Tuần Thánh.


2. Giúp người tín hữu sống lại và ý thức hơn về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô:

- Tuần Thánh là những ngày cao điểm nhất trong năm Phụng vụ, bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Kitô khải hoàn vào Giêrusalem. Trong những ngày này, Phụng vụ giúp người tín hữu sống lại những ngày, giờ mà Chúa Kitô đã vượt qua để thực hiện hoàn tất ơn cứu độ loài người.

- Nhờ tham dự Phụng vụ, người tín hữu sẽ ý thức rõ hơn về “việc họp mừng Mầu Nhiệm Vượt Qua, là phần chính yếu của việc thờ phượng Kitô giáo” và “Tam Nhật Vượt Qua, kính nhớ cuộc Thương Khó – Khổ Nạn – Phục Sinh của Chúa Kitô là điểm cao chói lọi của năm Phụng vụ.”

- Người tín hữu sống tuần lễ sau cùng của mùa Chay trong tinh thần sám hối sâu đậm hơn. Cũng trong chiều hướng đó, người có tội, nếu chưa lãnh Bí tích Hoà Giải trong mùa Chay, chuẩn bị bằng những ngày ăn chay, tức là ngày Thứ Sáu và nếu được cả ngày Thú Bảy Tuần Thánh để được làm hoà với Chúa và với anh chị em.

- Người Dự tòng (sau thời gian học hỏi giáo lý), cũng trực tiếp chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Rửa Tội (trong ngày Thứ Bảy Tuần Thánh) để được cùng chết và sống lại với Chúa Kitô.

- Như vậy, với Phụng vụ Tuần Thánh, Giáo Hội hướng dẫn đời sống người tín hữu vào hai hướng đi

- Người Kitô hữu phải thông hiệp với Thập giá của Chúa Kitô mới được chia sẻ sự sống với Người.

- Để có thể theo Chúa Kitô trên con đường Thập giá, người tín hữu phải được ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô chiếu rọi và thu hút. Đây cũng là tất cả đời sống của Giáo Hội.
Chi tiết

Các Ơn Đại Xá Được Hưởng Trong Tuần Thánh

Chiếu theo Tông Huấn Giáo Lý Ân Xá (Indulgentiarum Doctrina ) do Đức Thánh Cha Phaolo VI ban bố ngày 1 tháng 1 năm 1967 và Cẩm Nang Về Các Ân Xá (Enchiridion Indulgentiarum) ấn bản thứ tư năm 1999, các việc làm vào những dịp sau đây trong Tuần Thánh được hưởng nhận các ơn Đại Xá Hội Thánh rộng ban cho các tín hữu như sau :


- Tối Thứ Năm Tuần Thánh, sau Thánh Lễ Tiệc Ly, ai hát kinh Tantum Ergo (đây Nhiêm Tích Vô Cùng Cao Quý) hoặc Chầu Mình Thánh Chúa đủ 30 phút thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá.

- Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ai tham dự nghi lễ Thờ lạy và hôn kính Thánh Giá thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá.

- Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong Đêm Vọng Phục Sinh, ai tuyên lại lời hứa khi Rửa Tội hoặc có thể thay bằng Tín Biểu các Tông Đồ, Kinh Tin Kính công đồng Nicea-Constantinople thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá.

– Các ngày khác trong Tuần Thánh và các ngày khác quanh năm, ai viếng đủ 14 chặng Đàng Thánh Giá thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá.


Các ơn Đại Xá ngày mỗi ngày được hưởng nhận 1 lần và có thể nhường cho các linh hồn.

Để lãnh nhận ơn Đại Xá cần giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi tội trọng, tội nhẹ đã phạm, dứt lòng quyến luyến tội lỗi và theo các điều kiện hưởng ơn Đại Xá thông thường :  Xưng Tội - Rước Lễ trong chính ngày hưởng ơn Đại xá - Cầu theo ý Đức Giáo Hoàng : có thể cầu theo ý chỉ hoặc đọc thay bằng 1 Kinh Lạy Cha để hiệp ý cùng Đức Giáo Hoàng.
Chi tiết